Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

Vàng là gì

Vàng từ lâu đã được coi là kim loại đáng thèm muốn nhất trong các kim loại quý
Vàng đã được biết tới và sử dụng bởi các nghệ nhân từ thời Chalcolithic. 
Các đồ tạo tác bằng vàng ở Balkans xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, như những đồ vật được tìm thấy tại Varna Necropolis.

Các đồ tạo tác bằng vàng như những chiếc mũ vàng và đĩa Nebra xuất hiện ở Trung Âu từ thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên trong Thời đồ đồng.

Egyptian hieroglyph ngay từ năm 2600 BC đã miêu tả vàng, mà vua Tushratta của Mitanni tuyên bố là “nhiều hơn cát bụi” tại Ai Cập.

Ai Cập và đặc biệt là Nubia có các nguồn tài nguyên để biến họ trở thành các trung tâm chế tạo vàng trong hầu hết lịch sử.

Bản đồ sớm nhất được biết tới là Bản đồ giấy cói Turin và thể hiện sơ đồ của một mỏ vàng tại Nubia cùng với những chỉ dẫn địa lý địa phương.

Các phương thức chế biến ban đầu đã được Strabo miêu tả và gồm cả việc nung chảy.

Những mỏ lớn cũng hiện diện trên khắp Biển Đỏ ở nơi hiện là Ả Rập Saudi.

Truyền thuyết về bộ lông cừu vàng có thể để cập tới việc dùng lông cừu để khai thác bụi vàng từ trầm tích cát vàng ở thế giới cổ đại.
Vàng thường được đề cập tới trong Cựu ước, bắt đầu với Khải huyền (tại Havilah) và gồm trong với các quà tặng của magi trong những chương đầu tiên của Tân ước của Matthew.
Sách Khải huyền đã miêu tả thành phố Jerusalem Mới có các đường phố “làm bằng vàng nguyên chất, sáng như pha lê”.
Góc tây nam của Biển Đen nổi tiếng với vàng.

Việc khai thác được cho là đã bắt đầu từ thời Midas, và vàng ở đây đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cái có thể là đồng tiền đúc đầu tiên tại Lydia khoảng năm 610 trước Công Nguyên.

Từ thế kỷ thứ 6 hay thứ 5 trước Công Nguyên, nhà Chu đã cho sử dụng Ying Yuan, một kiểu đồng tiền xu vàng.

Người La Mã đã phát triển các kỹ thuật mới để khai thác vàng ở quy mô lớn bằng các phương pháp khai mỏ thuỷ lực, đặc biệt tại Tây Ban Nha từ năm 25 trước Công Nguyên trở về sau và tại Romania từ năm 150 sau Công Nguyên trở về sau.
Một trong những mỏ lớn nhất nằm tại Las Medulas ở León (Tây Ban Nha), nơi bảy cống dẫn nước rìa cho phép tháo hầu hết trầm tích bồi tích lớn.
Các mỏ tại Roşia Montană ở Transylvania cũng rất lớn, và cho tới tận gần đây, vẫn được khai thác bằng các phương pháp đúc lộ thiên. Các mỏ nhỏ hơn tại Anh cũng được khai thác, như các trầm tích cát vàng và đá cứng tại Dolaucothi. Nhiều phương pháp họ sử dụng đã được Pliny già miêu tả kỹ lưỡng trong bách khoa toàn thư của mình, Naturalis Historia được viết vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên.
Đế chế Mali tại châu Phi nổi tiếng khắp Cựu thế giới về trữ lượng vàng lớn của mình.
Mansa Musa, nhà cai trị đế chế (1312–1337) trở nên nổi tiếng khắp cựu thế giới về cuộc hành hương của mình tới Mecca năm 1324.
Ông đã đi qua Cairo tháng 7 năm 1324, ông được tả là đã được tháp tùng bởi một đoàn lạc đà với hàng nghìn người và gần một trăm con lạc đà.
Ông đã cho đi rất nhiều vàng tới mức vàng giảm giá ở Ai Cập trong hơn một thập kỷ.
Năm 1965, Cơ quan lập pháp California đã định danh vàng là “the State Mineral and mineralogical emblem.”

Năm 1968, Cơ quan lập pháp Alaska gọi tên vàng là “khoáng sản chính thức của bang.”

Vàng là gì ?
Vàng là tên nguyên tố hoá học có kí hiệu Au (L. aurum) và số nguyên tử 79 trong bảng tuần hoàn.
Là kim loại chuyển tiếp (hoá trị 3 và 1) mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản ứng với hầu hết các hoá chất nhưng lại chịu tác dụng của nước cường toan (aqua regia) để tạo thành axít cloroauric cũng như chịu tác động của dung dịch xyanua của các kim loại kiềm.
Vàng là nguyên tố kim loại có màu vàng khi thành khối, khi dạng bột vàng nguyên chất 100% có màu đen, hồng ngọc hay tía khi được cắt nhuyễn. 
Màu của vàng rắn cũng như của dung dịch keo từ vàng (có màu đậm, thường tía) được tạo ra bởi tần số plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy được, tạo ra ánh sáng vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sáng xanh khi hấp thụ.
Vàng nguyên thuỷ có chứa khoảng 8 đến 10% bạc, nhưng thường nhiều hơn thế.
Hợp kim tự nhiên với thành phần bạc cao (hơn 20%) được gọi là electrum. 
Khi lượng bạc tăng, màu trở nên trắng hơn và trọng lượng riêng giảm.
Vàng không bị ảnh hưởng về mặt hoá học bởi nhiệt, độ ẩm, ôxy và hầu hết chất ăn mòn. 
Vàng có ở dạng quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích và là một trong số kim loại đúc tiền.

Vàng được dùng làm một tiêu chuẩn tiền tệ ở nhiều nước và cũng được sử dụng trong các ngành trang sức, nha khoa và điện tử.
Mã tiền tệ ISO của vàng là XAU.
Vàng đã được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới như một phương tiện chuyển đổi tiền tệ, hoặc bằng cách phát hành và công nhận các đồng xu vàng hay các số lượng kim loại khác, hay thông qua các công cụ tiền giấy có thể quy đổi thành vàng bằng cách lập ra bản vị vàng theo đó tổng giá trị tiền được phát hành được đại diện bởi một lượng vàng dự trữ.Tuy nhiên, số lượng vàng trên thế giới là hữu hạn và việc sản xuất không gia tăng so với nền kinh tế thế giới.
Ngày nay, sản lượng khai thác vàng đang sụt giảm.
Với sự tăng trưởng mạnh của các nền kinh tế trong thế kỷ 20, và sự gia tăng trao đổi quốc tế, dự trữ vàng thế giới và thị trường của nó đã trở thành một nhánh nhỏ của toàn bộ các thị trường và các tỷ lệ trao đổi tiền tệ cố định với vàng đã trở nên không thể duy trì.
Ở đầu Thế chiến I các quốc gia tham gia chiến tranh đã chuyển sang một bản vị vàng nhỏ, gây lạm phát cho đồng tiền tệ của mình để có tiền phục vụ chiến tranh.

Sau Thế chiến II vàng bị thay thế bởi một hệ thống tiền tệ có thể chuyển đổi theo hệ thống Bretton Woods. Bản vị vàng và tính chuyển đổi trực tiếp của các đồng tiền sang vàng đã bị các chính phủ trên thế giới huỷ bỏ, bị thay thế bằng tiền giấy.
Thuỵ Sĩ là quốc gia cuối cùng gắn đồng tiền của mình với vàng; vàng hỗ trợ 40% giá trị của tiền cho tới khi Thuỵ Sĩ gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 1999.
Vàng nguyên chất quá mềm để có thể được sử dụng như tiền tệ hàng ngày và nó thường được làm cứng thêm bằng cách thêm đồng, bạc hay các loại kim loại cơ sở khác.
Hàm lượng vàng trong hợp kim được xác định theo thang độ K (cara , karat). 
Vàng nguyên chất được định danh là 24k tương đương với hàm lượng vàng 99,99%, là vàng nguyên chất, hay còn được gọi là Vàng Vật Chất.. 
Các đồng xu vàng được đưa vào lưu thông từ năm 1526 tới thập niên 1930 đều là hợp chất vàng tiêu chuẩn 22k được gọi là vàng hoàng gia, vì độ cứng.
Ví dụ :
- Vàng 18K có nghĩa là hàm lượng vàng chiếm 18 miếng/24 miếng ~ 75% (7 tuổi rưỡi). 
- Vàng 14K sẽ có hàm lượng vàng là 14/24 ~ 58.3% (6 tuổi), 
- Vàng 12K sẽ có hàm lượng vàng là 12/24 ~ 50% (5 tuổi) 
- Vàng 10K sẽ có hàm lượng vàng là 10/24 ~41.7% (4 tuổi).

Ở Mỹ vàng 10K là tiêu chuẩn tối thiểu để hợp kim vàng đó được gọi là “vàng”.

Các thỏi vàng hiện đại cho mục đích đầu tư hay cất trữ không yêu cầu các tính chất cơ khí tốt; chúng thường là vàng nguyên chất 24k, dù American Gold Eagle, gold sovereign của Anh, và Krugerrand của Nam Phi tiếp tục được đúc theo chất lượng 22k theo truyền thống.

Đồng xu Canadian Gold Maple Leaf phát hành đặc biệt có chứa lượng vàng nguyên chất cao nhất so với bất kỳ thỏi vàng nào, ở mức 99.999% hay 0.99999, trong khi đồng xu Canadian Gold Maple Leaf  phát hành phổ thông có độ nguyên chất 99.99%.

Nhiều đồng xu vàng nguyên chất 99.99% khác cũng có trên thị trường.

Australian Gold Kangaroos lần đầu tiên được đúc năm 1986 như Australian Gold Nugget. Chủ đề kangaroo của nó xuất hiện năm 1989. Ngoài ra, có nhiều đồng xu thuộc serie Australian Lunar Calendar, và Austrian Philharmonic.

Năm 2006, United States Mint bắt đầu sản xuất đồng xu vàng American Buffalo với độ nguyên chất 99.99%.
Hướng dẫn mở tài khoản kinh doanh vàng trực tuyến => mo-tai-khoan-kinh-doanh-vang-truc-tuyen
Tham khảo thêm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chúng tôi sẽ cập nhật ý kiến của bạn ngay sau khi kiểm duyện nội dung